A. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG
1. Quy định của BLHS hiện hành về các tội phạm kinh tế
1.1 Những vấn đề chung về tội phạm kinh tế
1.1.1 Khái niệm: tội phạm kinh tế được hiểu là những tội phạm có tính chất kinh tế xảy ra trong hoạt động kinh doanh, sản xuất của doanh nghiệp cũng như các hành vi phạm tội vì mục đích kinh tế.
1.1.2 Đặc điểm:
+ Đặc điểm tội phạm và người phạm tội: Tội phạm diễn ra trong thời gian khá dài, tỷ lệ tội phạm ẩn rất cao, dễ lẫn lộn với các vi phạm hành chính. Người phạm tội thường là người có chức vụ, quyền hạn, có quan hệ với người có trách nhiệm trong quản lý kinh tế, quản lý tài sản, lợi dụng nghiệp vụ quản lý kinh tế, tài chính, hiểu biết chính sách pháp luật để thực hiện hành vi. Đa dạng về thành phần lứa tuổi, có kinh nghiệm trình độ chuyên môn, có trách nhiệm trực tiếp hoặc gián tiếp giải quyết, quản lý các giá trị vật chất.
+ Đặc điểm về tuyến, địa bàn, ngành hàng: Lợi dụng các tuyến đường giao thông, vị trí hoạt động kinh tế, bưu điện,... để hoạt động. Lợi dụng cung cầu hợp pháp và bất hợp pháp để chuyển hàng cấm, hàng giả. Thường xuất hiện ở địa bàn trọng điểm kinh tế, biên giới,... để hoạt động. Đối với ngành hàng thì tội phạm tác động tới nhiều loại hàng hóa khác nhau.
+ Đặc điểm về thủ đoạn hoạt động: Cấu kết chặc chẽ giữa các đối thượng phạm tội, lợi dụng trong sản xuất, quản lý để xuất nhập khẩu, lưu thông hàng hóa, lợi dụng mối quan hệ với người có chức quyền để che chắn. Sử dụng các danh nghĩa để sản xuất, kinh doanh gây khó khăn trong phát hiện tội phạm. Cấu kết, mua chuộc cán bộ, người có chức vụ để che giấu hành vi phạm tội. Thủ đoạn tinh vi, phức tạp, thiết lập thành hệ thống chặc chẽ, có khả năng ngụy trang, che giấu hành vi.
1.1.3 Dấu hiệu pháp lý:
+ Khách thể: Xâm phạm đến các quan hệ xã hội bảo đảm cho sự ổn định và phát triển của nền kinh tế quốc dân. Đó là chế độ quản lý, điều hành toàn bộ nền kinh tế của nhà nước. Đó là quyền và lợi ích của nhà nước, của các tổ chức kinh tế, quyền và lợi ích, tính mạng, sức khỏe người tiêu dùng.
+ Khách quan: Các hành vi cố ý vi phạm các quy định của nhà nước về quản lý kinh tế ở các mức độ khác nhau với mục đích vụ lợi. Thể hiện dưới hình thức hành động hoặc không hành động.
+ Chủ thể: Cá nhân có năng lực trách nhiệm hình sự.
+ Chủ quan: Lỗi gồm động cơ và mục đích.
1.2 Các tội phạm kinh tế cụ thể
- Một số tội xâm phạm sở hữu
- Các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế
- Một số tội phạm về môi trường
- Một số tội phạm khác
* Một số tội xâm phạm sở hữu:
1. Tội công nhiên chiếm đoạt tài sản
2. Tội trộm cắp tài sản
3. Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
4. Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản
5. Thiếu trách nhiệm gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản của Nhà nước
* Các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế:
1. Tội buôn lậu
2. Tội sản xuất, buôn bán hàng giả
3. Tội kinh doanh trái phép
4. Tội đầu cơ
5. Tội trốn thuế
6. Tội in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước
7. Tội vi phạm quy định về bảo quản, quản lý hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước
8. Tội cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng
9. Tội lập quỹ trái phép
10. Tội báo cáo sai trong quản lý kinh tế
11. Tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp
12. Tội vi phạm về các quy định về cung ứng điện
13. Tội sử dụng trái phép quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ của tổ chức tín dụng
14. Tội vi phạm các quy định cho vay trong hoạt động của tổ chức tín dụng
15. Tội cố ý công bố thông tin sai lệch hoặc che dấu sự thật trong hoạt động chứng khoán
16. Tội sử dụng thông tin nội bộ để mua bán chứng khoán
17. Tội thao túng giá chứng khoán
* Một số tội phạm về môi trường
1. Tội gây ô nhiễm môi trường
2. Tội vi phạm quy định về quản lý chất thải nguy hại
3. Tội vi phạm quy định về phòng ngừa sự cố môi trường
4. Tội đưa chất thải vào lãnh thổ Việt Nam
5. Tội nhập khẩu, phát tán các loài ngoại lai
6. Nhập các điều 183 và 184 BLHS vào Điều 182
Điều 183 Tội gây ô nhiễm nguồn nước
Điều 184 Tội gây ô nhiễm đất
* Một số tội phạm khác:
1. Tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, mạng internet hoặc thiết bị số thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản (Đ.226b)
2. Tội vi phạm quy định về an toàn lao động, vệ sinh lao động, về an toàn ở những nơi đông người
3. Tội rửa tiền (Đ.251 BLHS sửa đổi, bổ sung 2009)
4. Tội tham ô tài sản (Đ.278)
2. Những vấn đề cần quan tâm
2.1. Vấn đề về quy định trách nhiệm hình sự của pháp nhân ở 2 nhóm tội phạm: nhóm tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế và nhóm các tội phạm về môi trường
Các tội phạm hình sự do pháp nhân thực hiện trong điều kiện hiện nay thì hành vi phạm tội được thực hiện rất tinh vi, phức tạp đòi hỏi cần phải có quy định chặt chẽ, cụ thể về các điều kiện để truy cứu trách nhiệm hình sự. Điển hình như các hành vi vi phạm về trốn thuế hay môi trường, nhiều vụ không phải do chính người đứng đầu cơ quan, tổ chức thực hiện mà họ ủy quyền cho người khác thực hiện (ví dụ như cấp phó). Trong những trường hợp này cũng cần phải xác định là do pháp nhân thực hiện. Hay những trường hợp không phải là ủy quyền nhưng thực hiện nhân danh pháp nhân thì cũng phải được coi là chính pháp nhân đó vi phạm.
Nếu chỉ xử lý về hình sự đối với người đại diện, những người được ủy quyền hoặc những nhân viên thừa hành thực hiện thì rõ ràng là bỏ lọt tội phạm, trái với nguyên tắc công bằng trong Bộ luật hình sự. Đã đến lúc vấn đề trách nhiệm hình sự của pháp nhân - tổ chức phải được giải quyết về mặt hình sự một cách trực tiếp.
2.1.1.Nhóm tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế
Hình sự hóa một số hành vi phạm tội trong lĩnh vực bảo hiểm, gồm kinh doanh bảo hiểm, bảo hiểm xã hội và bảo hiểm y tế. Mặc dù Luật bảo hiểm xã hội đã xác định các hành vi vi phạm pháp luật về bảo hiểm xã hội và quy định những chế tài xử lý hành chính đối với những hành vi vi phạm này. Tuy nhiên, tình trạng vi phạm pháp luật bảo hiểm xã hội trong những năm gần đây có chiều hướng gia tăng, ảnh hưởng không nhỏ đến quyền lợi của người lao động. Một vấn đề nổi cộm vi phạm pháp luật về bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế là tình trạng chậm đóng, nợ đọng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế ngày càng gia tăng, với số tiền lớn, xảy ra ở hầu hết các tỉnh, thành trên cả nước. Nghiêm trọng hơn có nhiều đơn vị nợ đóng bảo hiểm cho người lao động trong thời gian dài, có trường hợp doanh nghiệp chiếm dụng tiền đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế của người lao động, gây ảnh hưởng đến quyền lợi của người lao động, có hàng trăm nghìn lao động không được hưởng các chế độ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế kịp thời. Bên cạnh đó, trong lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm thì tình trạng lợi dụng kẽ hở của pháp luật và thực tiễn kinh doanh của các doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm cũng xuất hiện ngày càng phổ biến. Qua thực tiễn, vi phạm xảy ra ở hầu hết các lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm, nhưng tập trung nhiều vào hai lĩnh vực chủ yếu là bảo hiểm phi nhân thọ (bảo hiểm sức khỏe và tai nạn con người, bảo hiểm xe cơ giới, bảo hiểm cháy nổ, bảo hiểm hàng hóa...) và bảo hiểm nhân thọ.
Mặc dù có thể vận dụng một số quy định của Bộ luật hình sự để xử lý đối với hành vi gian lận bảo hiểm y tế, bảo hiểm xã hội và hành vi trục lợi trong kinh doanh bảo hiểm hội. Tuy nhiên, do lĩnh vực bảo hiểm y tế, bảo hiểm xã hội và kinh doanh bảo hiểm có những đặc thù. Việc gian lận, trục lợi trong lĩnh vực này có tính chất tương đối phổ biến, không chỉ ảnh hưởng nghiêm trọng tới quyền và lợi ích chính đáng của người lao động, người tham gia bảo hiểm mà còn gây ra những hậu quả nghiêm trọng cho sự ổn định và phát triển của chính sách an sinh xã hội, ảnh hưởng đến chính sách thu hút đầu tư để phát triển kinh tế của Đảng và Nhà nước.
Trong bối cảnh Việt Nam đang đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nền kinh tế thị trường và hội nhập thì việc bảo đảm sự ổn định và phát triển của chính sách an sinh xã hội, bảo vệ lực lượng lao động trong xã hội là một yêu cầu tất yếu. Nền công nghiệp ngày càng phát triển, đất đai dùng vào sản xuất nông nghiệp bị thu hẹp dần đã tạo ra một lực lượng lao động làm công ăn lương dồi dào. Điều này đòi hỏi phải có chính sách an sinh xã hội tốt để đảm bảo các quyền và lợi ích chính đáng của người lao động, bảo đảm sự phát triển bền vững kinh tế - xã hội.
2.1.2. Nhóm các tội phạm về môi trường
Trong thực tiễn vừa qua cho thấy nhiều vụ việc các cơ sở thủy điện xả lũ không đảm bảo thời gian thông báo cho các vùng dân cư ở khu vực hạ lưu gây ngập lụt, thiệt hại về vật chất nặng nề cho một số khu vực dân cư đó. Ngoài ra các hành vi như: khai thác cát, sỏi ở sông, suối trong vùng cấm, tạm thời cấm khai thác cát, sỏi gây sạt lở nghiêm trọng bờ, bãi sông. Những hành vi phá hoại các công trình bảo vệ, khai thác, sử dụng, quan trắc, giám sát tài nguyên nước, công trình phòng, chống và khắc phục hậu quả tác hại do nước gây ra. Nhưng Bộ luật hình sự hiện hành vẫn chưa có các quy định về hành vi phạm tội này. Do tính chất nghiêm trọng của các tội phạm môi trường và xét mục đích chủ yếu của các hành vi phạm tội là nhằm thu lợi nên cần phải đưa mức xử phạt nghiêm để đảm bảo tính răn đe, trừng trị đối với các hành vi vi phạm trên.
2.2. Vấn đề về tội cố ý làm trái quy định của nhà nước trong quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng quy định tại Điều 165 Bộ luật hình sự hiện hành.
Để nền kinh tế thị trường của một quốc gia phát triển lành mạnh, năng động thì cần phải khai thác mọi tiềm năng sẵn có và phát huy hết nguồn lực của mỗi cá nhân, tổ chức qua đó thúc đẩy mọi chủ thể trong xã hội phát huy, tìm tòi, sáng tạo, làm giàu cho bản thân và cho đất nước. Muốn làm được điều này, Nhà nước cần xây dựng hành lang pháp lý để người dân được quyền làm những điều pháp luật không cấm. Với tinh thần đó, thì việc duy trì tội cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng không đáp ứng được yêu cầu trên. Điều này vô hình chung đã làm cho mọi cá nhân, tổ chức không dám đi đầu, phát huy sáng kiến thúc đẩy sản xuất kinh doanh vì sợ vướng vào tội này. Điều này lại càng nghiêm trọng hơn khi hệ thống pháp luật về quản lý kinh tế của ta đang trong quá trình hoàn thiện, tính ổn định không cao, nên việc tiếp tục duy trì tội này trong Bộ luật hình sự thực sự là một rào cản rất lớn cho quá trình phát triển kinh tế, là cơ sở để các cơ quan tố tụng áp dụng nguyên tắc tương tự - vốn là điều cấm kỵ trong một nền tư pháp hiện đại – để xử lý các hành vi mà BLHS chưa dự liệu trước.
2.3. Vấn đề quy định về thu hẹp phạm vi áp dụng hình phạt tử hình
Theo hướng tiếp tục thể chế hóa chủ trương hạn chế hình phạt tử hình được xác định tại các Nghị quyết của Đảng về cải cách tư pháp, đặc biệt là Nghị quyết số 49/NQ-TWcủa Bộ Chính trị ngày 02/6/2005 về Cải cách tư pháp đến năm 2020 và bám sát tinh thần nội dung Hiến pháp năm 2013 về quyền con người, quyền cơ bản của công dân. Dự thảo quy định chặt chẽ các điều kiện áp dụng hình phạt tử hình nhằm thu hẹp phạm vi áp dụng hình phạt này, theo đó hình phạt tử hình chỉ được áp dụng đối với một số đối tượng phạm một số loại tội đặc biệt nghiêm trọng.
Nên bỏ hình phạt tử hình đối với tội sản xuất, buôn bán hàng giả là lương thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh, thuốc phòng bệnh (Điều 157 Bộ luật hình sự hiện hành).Vì trong thực tiễn xét xử từ năm 1993 đến năm 2010 đã không bị áp dụng hình phạt tử hình (đã xóa bỏ trong thực tiễn áp dụng)[1] đối với tội sản xuất, buôn bán hàng giả là lương thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh, thuốc phòng bệnh.
3. Định hướng sửa đổi cụ thể đối với các tội phạm kinh tế
3.1. Bổ sung chế định về pháp nhân
Bổ sung chế định về pháp nhân đối với các hành vi vi phạm trong các lĩnh vực thuế, xây dựng, chứng khoán, môi trường, bảo hiểm, sở hữu trí tuệ, cạnh tranh…
3.2. Tội phạm hóa, hình sự hóa các hành vi vi phạm pháp luật được và chưa được điều chỉnh.
Bổ sung chế tài Tội phạm hóa, hình sự hóa các hành vi vi phạm pháp luật được và chưa được điều chỉnh trong các lĩnh vực môi trường, bảo hiểm, an toàn thực phẩm…
3.3. Cụ thể định mức, định lượng, định tính ở một số loại tội phạm
Bổ sung sửa đổi bằng cách cụ thể thể định mức, định lượng, định tính ở một số loại tội phạm trong các tội xâm phạm sở hữu, xâm phạm trật tự quản lý kinh tế, môi trường…
3.4. Phi hình sự hóa một số tội trong lĩnh vực xâm phạm trật tự quản lý kinh tế
Sửa đổi bằng cách phi hình sự hóa một số tội trong lĩnh vực xâm phạm trật tự quản lý kinh tế như tội kinh doanh trái phép, cố ý làm trái quy định nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng, quảng cáo gian dối.
[1]Trịnh Quốc Toản, Hình phạt tử hình trong luật hình sự Việt Nam – Một số kiến nghị hoàn thiện, ĐHQGHN, 2013.
B. TỘI PHẠM HÓA - HÌNH SỰ HÓA
1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
Gần 10 năm qua, Bộ luật hình sự 1999 đã đi vào cuộc sống, phát huy những hiệu quả tích cực trong cuộc đấu tranh phòng và chống tội phạm, góp phần xứng đáng vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, 10 năm qua cũng đã có những biến đổi trong một số quan hệ xã hội làm nảy sinh nhu cầu tất yếu phải điều chỉnh. Xã hội là một thực thể sống, trong nội hàm của nó đã buộc phải có tính tổ chức, có sự điều chỉnh. Điều chỉnh xã hội là do bản thân nhu cầu xã hội để chấn chỉnh các góc độ xã hội, đó là một tất yếu, một quy luật, một thuộc tính của mọi xã hội nhằm đảm bảo sự ổn định xã hội. Chính vì vậy, ngày 19-6-2009 Quốc hội đã ban hành Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật hình sự 1999 nhằm điều chỉnh các mối quan hệ xã hội theo hướng bổ sung, sửa đổi một số mối quan hệ xã hội trong lĩnh vực hình sự. Trong vấn đề tội phạm hóa, phi tội phạm hóa và vấn đề hình sự hóa, phi hình sự hóa trong một số tội phạm kinh tế là một vấn đề rất quan trọng. Cùng ngày, Quốc hội cũng đã ban hành Nghị quyết số 33/2009/QH 12 về việc thi hành Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật hình sự (sau đây xin gọi chung là Nghị quyết số 33).
1.1. Tội phạm là gì ?
Tội phạm là một hiện tượng xã hội mang tính chất hình sự - pháp lý, có nguồn gốc và nguyên nhân từ xã hội. Mặt khác, tội phạm là một phạm trù lịch sử, nó gắn liền với Nhà nước và giai cấp. Khái niệm tội phạm cũng luôn vận động và biến động cùng với những vận động của xã hội. Nghiên cứu hành vi phạm tội là nghiên cứu những hành vi mang tính cá biệt, phản xã hội của con người. Người ta có thể tiếp cận vấn đề tội phạm từ nhiều góc độ khác nhau của các ngành khoa học khác nhau.
Theo Bộ luật hình sự Việt Nam “ Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hoá, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tự do, tài sản, các quyền, lợi ích hợp pháp khác của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa” (Điều 8 BLHS 1999 SĐ, BS năm 2009).
1.2. Tội phạm kinh tế là gì ?
Khái niệm “tội phạm kinh tế” không phải là một phạm trù pháp lý. Tùy theo mục đích nghiên cứu mà thuật ngữ “tội phạm kinh tế” được hiểu ở các phạm vi rộng hẹp khác nhau.
Trong chuyên đề này, các tội phạm kinh tế được hiểu là “những tội phạm có tính chất kinh tế xảy ra trong hoạt động kinh doanh, sản xuất của doanh nghiệp cũng như các hành vi phạm tội vì mục đích kinh tế”.
1.3. Tội phạm hóa và phi tội phạm hóa
1.3.1. Tội phạm hóa
Một số quan hệ xã hội trước đây không được điều chỉnh bằng pháp luật hình sự, nhưng đến nay dưới "con mắt" của Nhà nước thì các mối quan hệ đó phải được pháp luật hình sự điều chỉnh. Những hành vi mà Nhà nước xác định là nguy hiểm cho xã hội trở thành một tội phạm và được quy định trong Bộ luật hình sự và đương nhiên tùy theo tính chất, mức độ (tính nguy hiểm của hành vi) mà xác định các chế tài phù hợp, tức là xác định loại hình phạt, điều kiện quyết định hình phạt đối với loại tội phạm này hay tội phạm khác là quá trình tội phạm hóa.
=> Tội phạm hóa là việc ghi nhận trong pháp luật hình sự một hành vi nào đó là tội phạm (mà trước đây chưa được pháp luật hình sự coi là tội phạm) và quy định trách nhiệm hình sự đối với việc thực hiện hành vi đó.
Một số hành vi trước đây không coi là tội phạm, không được quy định trong Bộ luật hình sự thì nay đã được coi là tội phạm và quy định cụ thể trong Bộ luật hình sự, đó là các tội: Tội xâm phạm quyền tác giả, quyền liên quan (Điều 170a), Tội thao túng giá chứng khoán (Điều 181c),…
1.3.2. Phi tội phạm hóa
Phi tội phạm hóa là việc loại trừ khỏi pháp luật hình sự hiện hành một hành vi nào đó (mà trước đây đã bị coi là tội phạm) và hủy bỏ trách nhiệm hình sự đối với việc thực hiện hành vi đó.
Chẳng hạn, từ ngày 29-6-2009, các hành vi sau đây không còn là tội phạm, tức là các hành vi này không còn nguy hiểm cho xã hội tới mức phải sử dụng các biện pháp hình sự mà chỉ cần điều chỉnh bằng các biện pháp khác như: Các hành vi xâm phạm quyền tác giả (Điều 131) hay các hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp (Điều 171), trừ hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu và chỉ dẫn địa lý.
1.4. Hình sự hóa và phi hình sự hóa
1.4.1. Hình sự hóa
Theo quan điểm của một bộ phận lớn học giả, luật sư, sinh viên luật: “Hình sự hóa là việc sử dụng các quan hệ pháp luật hình sự để giải quyết các quan hệ dân sự”. Theo cách hiểu này, bản chất của hình sự hóa là việc bẻ lái phương hướng áp dụng pháp luật.
Theo quan điểm của GS.TSKH Đào Trí Úc: “Hình sự hóa (penalisation) chính là việc quy định hình phạt, khung hình phạt, điều kiện áp dụng hình phạt này đối với tội phạm này hay tội phạm khác được quy định trong Bộ luật hình sự”. Như vậy, hình sự hóa chỉ diễn ra ở giai đoạn xây dựng pháp luật chứ không thể diễn ra ở giai đoạn áp dụng pháp luật.
Hình sự hóa còn có nghĩa là khi bổ sung vào một điều luật hình sự nào đó các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, tăng nặng hơn mức độ hình phạt tù hoặc áp dụng các hình phạt khác (các hình phạt chính, hình phạt bổ sung) nặng hơn, mở rộng hơn về đối tượng phạm tội, đưa thêm vào cấu thành cơ bản những yếu tố định tội, giảm bớt định lượng trong cấu thành cơ bản… Do đó, tội phạm hóa là một trong những thể hiện cụ thể của quá trình hình sự hóa.
Chẳng hạn, theo Điều 160: Tội đầu cơ, trong cấu thành cơ bản đã quy định thêm tình tiết "hoặc tình hình khó khăn về kinh tế" và nâng mức hình phạt tiền từ "năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng" lên "từ hai mươi triệu đồng đến hai trăm triệu đồng".
1.4.2. Phi hình sự hóa
Phi hình sự hóa là việc bỏ đi những quy định hoặc một số quy định chung làm tăng trách nhiệm hình sự của người phạm tội, bỏ loại hình phạt, bỏ đi các tình tiết định tội, định khung hình phạt đối với một hoặc một số loại tội phạm đã được quy định trong Bộ luật hình sự.
Theo khoản 2 Điều 1 Nghị quyết 33, kể từ ngày Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật hình sự được công bố, tức là ngày 29-6-2009 thì: Khi xét xử sơ thẩm, phúc thẩm không áp dụng hình phạt tử hình đối với những người phạm tội (không phân biệt hành vi phạm tội thực hiện trước hay sau ngày 29-6-2009): làm, tàng trữ, vận chuyển, lưu hành tiền giả, ngân phiếu giả, công trái giả (khoản 3 Điều 180),..
Như vậy, quá trình hình sự hóa, tội phạm hóa là một quá trình ngược lại của quá trình phi hình sự hóa, phi tội phạm hóa. Quá trình này thể hiện việc điều chỉnh pháp luật hay cũng là thể hiện chính sách hình sự của Nhà nước cho phù hợp với sự phát triển của các mối quan hệ xã hội.
1.5. Ý nghĩa
Theo lý thuyết về tội phạm, xét về dấu hiệu nội dung thì tội phạm phải là hành vi nguy hiểm cho xã hội. Tính nguy hiểm cho xã hội của tội phạm luôn chịu sự chi phối của các điều kiện khách quan. Sự vận động của xã hội, sự phát triển của các điều kiện về kinh tế, chính trị xã hội kéo theo sự thay đổi tính nguy hiểm của hành vi phạm tội. Khi tính nguy hiểm của hành vi phạm tội thay đổi thì việc áp dụng chế tài đối với hành vi đó cũng cần thay đổi theo. Vì vậy, việc đưa vào Bộ luật hình sự hành vi nguy hiểm cho xã hội (tội phạm hóa, hình sự hóa) hay ra khỏi Bộ luật hình sự hành vi không còn nguy hiểm (phi tội phạm hóa, phi hình sự hóa) là cần thiết.
Thực tiễn xã hội, lịch sử của việc đấu tranh phòng và chống tội phạm cho thấy, hiệu quả của các quy phạm pháp luật hình sự đạt được không phải là bằng sự mở rộng phạm vi áp dụng hoặc tăng nặng hình phạt mà phải bằng việc phân hóa tối đa trách nhiệm hình sự và đảm bảo hoàn toàn nguyên tắc không tránh khỏi trách nhiệm hình sự. Vì vậy, trong những điều kiện đầy phức tạp của nền kinh tế thị trường do sự tăng lên về số lượng của việc tội phạm hóa những hành vi nguy hiểm cho xã hội, nhà nước thường bị thiệt hại không những về tinh thần, mà phần đáng kể hơn là về vật chất, khi một bộ phận lớn công dân bị loại ra khỏi lĩnh vực sản xuất ra của cải cho xã hội và nhà nước phải bỏ ra các chi phí giáo dục, cải tạo những người bị kết án trong các nhà tù. Do đó, không phải ngẫu nhiên, khi chứng minh sự giảm nhẹ sự trấn áp về hình sự đối với những người phạm tội cũng như của việc kết hợp điều này với nguyên tắc nhân đạo, tính nhân văn và của cải của xã hội. Đây là quan niệm đúng đắn, thể hiện sự cần thiết và vai trò quan trọng của việc tội phạm hóa, hình sự hóa và phi tội phạm hóa, phi hình sự hóa trong pháp luật hình sự.
2. NỘI DUNG TỘI PHẠM HÓA VÀ PHI TỘI PHẠM HÓA, HÌNH SỰ HÓA VÀ PHI HÌNH SỰ HÓA TRONG MỘT SỐ TỘI PHẠM KINH TẾ TRONG LUẬT SỬA ĐỔI 2009
Bộ luật hình sự năm 1999, sửa đổi, bổ sung năm 2009 đã thể chế hóa chính sách về tội phạm, hình phạt qua việc cân nhắc, đánh giá về mặt pháp luật các hành vi nguy hiểm xảy ra một cách khách quan trong xã hội thong qua quá trình tội phạm hóa và phi tội phạm hóa, hình sự hóa và phi hình sự hóa ở phần các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế. Những nội dung sửa đổi, hoàn thiện đã thể hiện quy định trong Bộ luật Hình sự hiện hành về các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế không chỉ đáp ứng yêu cầu phòng ngừa và đấu tranh chống loại tội phạm này mà còn tạo ra hành lang pháp lý an toàn cho các hoạt động kinh tế trong nền kinh tế thị trường.
2.1. Nội dung tội phạm hóa và phi tội phạm hóa
2.1.1. Tội phạm hóa
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS năm 1999, đã tội phạm hóa một số hành vi trong lĩnh vực kinh tế, đáp ứng yêu cầu phát triển của nền kinh tế trong giai đoạn này. Thực tiễn áp dụng Bộ luật Hình sự cho thấy, một số hành vi vi phạm pháp luật đang phát triển rất nguy hiểm cho xã hội, có nơi, có lúc diễn biến phức tạp nhưng chưa được quy định trong Bộ luật Hình sự là tội phạm – tức chưa được tội phạm hóa kịp thời. Vì vậy, xuất phát từ tình hình thực tế, sau khi xem xét các yếu tố, đặc điểm phát triển kinh tế, chính trị, văn hóa, truyền thống pháp lý Việt Nam cũng như các yếu tố quốc tế, xu thế chung của thế giới trong thời kì hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, Luật sửa đổi, bổ sung năm 2009 đã quy định một số tội phạm mới trong chương XVI tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế về lĩnh vực tài chính – kế toán, chứng khoán,… Điển hình là:
Điều 164a: Tội in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước
Điều 164b: Tội vi phạm quy định về bảo quản, quản lý hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước
Điều 170a: Tội xâm phạm quyền tác giả, quyền liên quan
Điều 181a: Tội cố ý công bố thông tin sai lệch hoặc che giấu sự thật trong hoạt động chứng khoán
Điều 181b: Tội sử dụng thông tin nội bộ để mua bán chứng khoán
Điều 181c: Tội thao túng giá chứng khoán
Tội phạm môi trường:
Điều 182a: Tội vi phạm quy định về quản lý chất thải nguy hiểm
Điều 182b: Tội vi phạm quy định về phòng ngừa sự cố môi trường
Điều 185: Tội đưa chất thải vào lãnh thỏ Việt Nam
Điều 191: Tội vi phạm các quy định về quản lý khu bảo tồn thiên nhiên
Điều 191a: Tội nhập khẩu, phát tán các loại ngoại lai xâm hại
Chẳng hạn, trong luật sửa đổi, bổ sung đã sửa đổi Tội đầu cơ (Điều 160) theo hướng mở rộng khả năng để có thể xử lý về hình sự đối với những hành vi đầu cơ xảy ra trong thời gian vừa qua nhằm góp phần ổn định thị trường. Theo quy định tại Điều 160 BLHS 1999 thì tội đầu cơ được hiểu với phạm vi rất hẹp. Theo đó, chỉ bị xử lý về tội này khi hành vi được thực hiện “trong tình hình thiên tai, dịch bệnh và chiến tranh”. Chính vì vậy, để đấu tranh ngăn chặn hành vi đầu cơ, góp phần bình ổn thị trường, giá cả, Luật sửa đổi, bổ sung đã quy định bổ sung dấu hiệu “trong tình hình có khó khăn về kinh tế”. Như vậy, hành vi đầu cơ trong tình hình khó khăn về kinh tế có thể cấu thành tội phạm này nếu thỏa mãn các dấu hiệu định tội khác.
2.1.2. Phi tội phạm hóa
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Hình sự năm 2009 đã tiếp tục sửa đổi, bổ sung một số điều ở chương các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế nhằm góp phần tháo gỡ phần nào những bất cập, vướng mắc trong thực tiễn áp dụng bằng quá trình phi tội phạm hóa thể hiện qua việc xóa bỏ điểm c khoản 2 Điều 171: Tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp và Tội đàu cơ (Điều 160). Tội phạm môi trường về Tội gây ô nhiễm nguồn nước (Điều 183) và Tội gây ô nhiễm đất (Điều 184).
2.2. Nội dung hình sự hóa và phi hình sự hóa
2.2.1. Hình sự hóa
Hình sự hóa là quá trình diễn ra song song với quá trình tội phạm hóa do xuất phát từ mối quan hệ không thể tách rời giữa tội phạm và hình phạt. Nghiên cứu quy định của Bộ luật Hình sự năm 1999 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Hình sự năm 2009 cho thấy nội dung hình sự hóa thể hiện ở Điều 161, Điều 164a, Điều 164b, 170a, Điều 171, Điều 174, 181a, 181b, 181c và tội phạm môi trường như Điều 182a, Điều 182b, Điều 191a. Hình sự hóa trong những trường hợp này thể hiện tính tất yếu trong lập pháp hình sự về mối quan hệ giữa tội phạm và hình phạt. Tính chịu hình phạt luôn luôn là thuộc tính của tội phạm, thể hiện bằng việc Nhà nước đe dọa áp dụng hình phạt đối với người thực hiện hành vi bị coi là tội phạm. Vì vậy, khi nhà làm luật quy định bổ sung những hành vi phạm tội mới vào Bộ luật Hình sự thì đồng thời phải dự liệu chế tài (hình phạt) tương xứng với tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi.
2.2.2. Phi hình sự hóa
Quá trình hoàn thiện pháp luật hình sự Việt Nam nói chung, hoàn thiện các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế nói riêng luôn quán triệt quan điểm nhân đạo xã hội chủ nghĩa mà thể hiện tập trung nhất là ở những quy định về hình phạt.Trong đấu tranh phòng chống tội phạm, hình phạt được áp dụng không chỉ nhằm trừng trị mà còn nhằm mục đích cảm hóa, giáo dục người phạm tội trở thành người có ích cho xã hội. Trên tinh thần đó, những năm gần đây trong chính sách hình sự của chúng ta đã thể hiện đường lối xử lý đối với các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế có nhiều thay đổi theo hướng giảm bớt các hình phạt nghiêm khắc như tử hình.
Năm 2009, xuất phát từ thực tiễn đấu tranh với các loại tội phạm kinh tế cũng như đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp trong giai đoạn hiện nay, Luật sửa đổi, bổ sung đã sửa đổi theo hướng ngày càng nhân đạo, đó là bỏ quy định hình phạt tử hình đối với một số tội phạm, trong đó có tội buôn lậu (Điều 153) và tội làm, tàng trữ, vận chuyển, lưu hành tiền giả, ngân phiếu giả, công trái giả (Điều 180). Như vậy, từng bước hạn chế phạm vi áp dụng hình phạt tử hình, giảm tối đa quy định hình phạt tử hình đối với các tội trong chương xâm phạm trật tự quản lý kinh tế phù hợp với xu hướng chung của thế giới hiện nay.
3. THỰC TRẠNG ÁP DỤNG BỘ LUẬT HÌNH SỰ HIỆN HÀNH
Sau gần 16 năm thi hành, BLHS năm 1999 (được sửa đổi, bổ sung năm 2009), đặc biệt là sự phát triển của Hiến pháp năm 2013 về việc ghi nhận và đảm bảo thực hiện các quyền con người, quyền công dân đặt ra yêu cầu phải tiếp tục đổi mới, hoàn thiện cả hệ thống pháp luật đã có những tác động tích cực đối với công tác phòng, chống tội phạm, bảo vệ và thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, góp phần tích cực vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, bảo vệ tốt hơn quyền con người, quyền công dân. Việc thực hiện đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước về xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN mà nội dung cơ bản là ghi nhận và bảo đảm thực hiện các quyền con người, quyền cơ bản của công dân; chiến lược hoàn thiện hệ thống pháp luật, chiến lược cải cách tư pháp và chủ động hội nhập quốc tế của Việt Nam đã mang lại những chuyển biến lớn, tích cực về kinh tế - xã hội và đối ngoại của đất nước. Bên cạnh đó, tình hình tội phạm nhìn chung vẫn diễn biến hết sức phức tạp với những phương thức, thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt. Số lượng tội phạm luôn có xu hướng gia tăng, nghiêm trọng hơn cả về quy mô và tính chất, nhất là trong các lĩnh vực kinh tế, môi trường. Điều này đã làm cho BLHS hiện hành trở nên bất cập không đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn.
Ngày nay, xu thế chủ động hội nhập quốc tế đã trở thành nhu cầu nội tại của Việt Nam. Trên thực tế, nước ta đã tham gia nhiều tổ chức quốc tế, tổ chức khu vực và đã trở thành thành viên của nhiều điều ước quốc tế đa phương, trong đó có các công ước về phòng chống tội phạm, ... Bên cạnh đó, cùng với quá trình hội nhập quốc tế, nước ta cũng đang phải đối mặt với sự gia tăng của các loại tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia, các tội phạm do người nước ngoài thực hiện. Điều này, đòi hỏi phải tiếp tục sửa đổi, bổ sung BLHS để nội luật hóa các quy định về hình sự trong các điều ước quốc tế mà nước ta là thành viên nhằm thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ của quốc gia thành viên và tạo cơ sở pháp lý thuận lợi cho việc chủ động và tăng cường hợp tác quốc tế trong phòng, chống tội phạm, đặc biệt là các tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia.
C. TÌNH HÌNH TỘI PHẠM KINH TẾ
1. MỘT SỐ KHÁI NIỆM
1.1. Khái niệm tình hình tội phạm
Tình hình tội phạm vừa là thuật ngữ thông thường dùng để chỉ sự hiện diện tội phạm trong xã hội, đồng thời cũng là một thuật ngữ đặc thù của tội phạm học. Khái niệm này đôi khi được sử dụng tương đương với khái niệm “tình trạng phạm tội”. Tuy nhiên, do thuật ngữ “tình trạng” thường được sử dụng để chỉ một hiện tượng, một vấn đề trong hiện tại và không chỉ thể hiện được diễn biến trong quá khứ, xu thế trong tương lai nên đa số nhà tội phạm học Việt Nam hiện nay sử dụng thuật ngữ “tình hình tội phạm” khi đề cập đến hiện tượng này.
Ở góc độ khoa học, khái niệm tình hình tội phạm cần được phân tích ở nhiều khía cạnh để có thể hiểu đúng bản chất của nó. Khoa học pháp lý hình sự nhận thức khái niệm tội phạm ở mức độ sự kiện, hành vi thì tội phạm học nhận thức tình hình tội phạm ở mức độ khái quát, trừu tượng: hiện tượng xã hội được tạo thành từ những tội phạm cụ thể. Với tư cách là hiện tượng xã hội tồn tại khách quan, tình hình tội phạm chứa đựng những thuộc tính, đặc điểm riêng. Những thuộc tính, đặc điểm này phản ánh bản chất tình hình tội phạm, đồng thời có thể phân biệt được với những hiện tượng khác, trong đó có những hiện tượng có liên quan hoặc tương tự (như tệ nạn xã hội, hiện tượng vi phạm pháp luật hành chính, hiện tượng vi phạm đạo đức xã hội,…). Như vậy, để có cơ sở đưa ra khái niệm tình hình tội phạm, trước hết cần làm sáng tỏ các thuộc tính, đặc điểm tình hình tội phạm. Mặt khác, tình hình tội phạm cũng nhận thức ở khía cạnh “quy mô, kích cỡ” bằng những thông tin cụ thể, vì thế các thông số tình hình tội phạm cũng là một nội dung cần được đề cập khi bàn về khái niệm tình hình tội phạm.
Như vậy, có thể đưa ra một định nghĩa khái quát về tình hình tội phạm như sau: “Tình hình tội phạm là một hiện tượng xã hội tiêu cực, trái pháp luật hình sự, mang tính giai cấp và thay đổi theo quá trình của lịch sử; được thể hiện ở một tổng hợp các tội phạm cụ thể đã xảy ra trong xã hội và trong một khoảng thời gian nhất định”.[1]
1.2. Khái niệm tội phạm kinh tế
Trong khoa học luật hình sự Việt Nam, tội phạm kinh tế được hiểu theo nghĩa rộng và nghĩa hẹp. Theo nghĩa hẹp, tội phạm kinh tế chỉ là những hành vi nguy hiểm cho xã hội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế của nhà nước được quy định ở chương XVI Bộ luật hình sự năm 1999. Còn theo nghĩa rộng, tội phạm kinh tế được hiểu bao gồm các tội liên quan đến hoạt động sản xuất, kinh doanh, trong lĩnh vực thương mại và thậm chí trong lĩnh vực môi trường. Theo nghĩa này, tội phạm kinh tế trong Bộ luật hình sự năm 1999 không chỉ bao gồm các tội phạm xâm phạm trật tự quản lý kinh tế (chương XVI) mà cả các chương khác của Bộ luật hình sự như: các tội phạm về môi trường (chương XVII), các tội phạm về tham nhũng (chương XXI)… Như vậy, có thể khái quát khái niệm tội phạm kinh tế như sau:
“Tội phạm kinh tế là những hành vi nguy hiểm cho xã hội, có lỗi, xâm phạm các quan hệ xã hội có tính chất kinh tế hoặc phạm tội vì mục đích kinh tế, gây thiệt hại cho lợi ích của nhà nước, lợi ích hợp pháp của tổ chức và của công dân”.
1.3. Khái niệm tình hình tội phạm kinh tế
Như đã đưa ra và phân tích khái niệm tình hình tội phạm ở phần trước, tình hình tội phạm kinh tế là một khái niệm cụ thể hơn nhằm xác định trạng thái, xu thế vận động, diễn biến của tội phạm trong lĩnh vực kinh tế hoặc thực hiện hành vi phạm tội vì mục đích kinh tế. Do đó, có thể rút ra một khái niệm về tình hình tội phạm kinh tế từ khái niệm tình hình tội phạm nói chung như sau:
“Tình hình tội phạm kinh tế là trạng thái, xu thế vận động của tổng hợp các tội phạm kinh tế cụ thể đã xảy ra trong một đơn vị không gian và trong một khoảng thời gian nhất định”.
2. CÁC THUỘC TÍNH CỦA TÌNH HÌNH TỘI PHẠM KINH TẾ
2.1. Tình hình tội phạm kinh tế là một hiện tượng xã hội
Khi xác định một hiện tượng mang tính xã hội, thông thường chúng ta căn cứ vào nguồn gốc hình thành, nội dung tác động, quy luật vận động của hiện tượng đó trong tương lai có mối liên quan như thế nào với các điều kiện của xã hội. Có thể khẳng định rằng một trong những đặc điểm dùng để phân biệt tình hình tội phạm nói chung và tình hình tội phạm kinh tế nói riêng với những hiện tượng tự nhiên khác đó là tính xã hội.
Xét về nguồn gốc, nếu như những thiệt hại do hiện tượng tự nhiên gây ra là do những biến đổi tự nhiên ngoài sự kiểm soát thì tình hình tội phạm kinh tế lại chính do con người thực hiện. Điều này xuất phát từ lí do tình hình tội phạm kinh tế được nhận thức từ các tội phạm cụ thể, mà một tội phạm cụ thể bao giờ cũng do một người cụ thể đang tồn tại trong xã hội thực hiện. Con người này thực hiện hành vi cụ thể bị coi là tội phạm không phải do một thế lực thần bí nào chi phối hay do những đặc điểm sinh học bẩm sinh, mà họ thực hiện hành vi phạm tội xuất phát từ nhận thức xã hội dưới sự tác động của các điều kiện xã hội nhất định. Như vậy, tình hình tội phạm kinh tế mang tính xã hội được thể hiện ở chỗ đây là một hiện tượng tồn tại trong xã hội, do con người trong xã hội thực hiện dưới sự tác động của những điều kiện xã hội nhất định.
Xét về nội dung tác động, chính do được hình thành từ tổng thể các tội phạm đã xảy ra cho nên những thiệt hại do tình hình tội phạm kinh tế gây ra không chỉ là một nạn nhân cụ thể, một mối quan hệ xã hội cụ thể mà tình hình tội phạm gây ra những thiệt hại lớn cho tất cả các quan hệ xã hội được pháp luật thừa nhận và bảo vệ. Với sự xâm phạm vào các giá trị xã hội, các quan hệ xã hội này mà có thể nói rằng tình hình tội phạm kinh tế trong từng thời kì phản ánh rõ nét thực trạng xã hội của thời kì đó cụ thể là những mâu thuẫn tồn tại trong lòng xã hội dưới sự tác động của các quan hệ kinh tế, văn hóa, chính trị.., những biến đổi về giá trị vật chất, tinh thần, sự tiêu cực trong tâm lý con người, tâm lý xã hội.
Ví dụ: Điều 184. Tội lạm sát gia súc (Bộ luật hình sự năm 1985)
Người nào giết trâu, bò hoặc các súc vật khác trái với các quy định của Nhà nước về bảo vệ sức kéo gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử lý hành chính mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến một năm hoặc bị phạt tù từ ba tháng đếnba năm.
Như vậy, trong thời kỳ của Bộ luật hình sự 1985, với quan điểm nhằm bảo vệ sức kéo của trâu bò, góp phần thúc đẩy phát triển các ngành nông nghiệp và nhu cầu vận chuyển hàng hóa thời bấy giờ nên các nhà lập pháp đã tội phạm hóa vấn đề này. Tuy nhiên, đến Bộ luật hình sự năm 1999 thì quy định này không còn phù hợp với thực tiễn xã hội nữa và tội phạm này cũng được phi tội phạm hóa.
2.2. Tình hình tội phạm kinh tế là hiện tượng trái pháp luật hình sự
Tình hình tội phạm kinh tế không chỉ đơn thuần là hiện tượng xã hội mà còn là hiện tượng trái pháp luật hình sự. Một hành vi nguy hiểm cho xã hội được coi là tội phạm nếu được quy định trong pháp luật hình sự. Mà tình hình tội phạm kinh tế được tạo bởi các tội phạm xâm phạm đến các quan hệ xã hội thể hiện trật tự quản lý của nhà nước, các tội phạm có liên quan đến kinh tế hoặc vì mục đích kinh tế khác cụ thể đã xảy ra trong xã hội do vậy nó cũng mang tính trái pháp luật hình sự.
Tính trái pháp luật hình sự của tình hình tội phạm kinh tế tuy là dấu hiệu hình thức nhưng có ý nghĩa rất quan trọng khi nghiên cứu, đánh giá thực trạng, cơ cấu, động thái của tình hình tội phạm kinh tế. Bởi vì nó cho phép chúng ta xác định hành vi nguy hiểm cho xã hội nào là tội phạm, phân biệt tội phạm với các vi phạm pháp luật khác. Mặt khác, sự thay đổi của pháp luật hình sự theo hướng mở rộng hay thu hẹp phạm vi tội phạm có ảnh hưởng trực tiếp đến các chỉ số của nó.
Ví dụ 1: Trong văn bản Bộ luật hình sự năm 1999 đã quy định một số tội mới như: Điều 168 tội quảng cáo gian dối; Điều 169 tội cố ý làm trái quy định về phân phối tiền, hàng cứu trợ; Điều 170 tội vi phạm quy định về cấp văn bằng bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp; Điều 171 tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp…
Ví dụ 2: Thay đổi pháp luật theo hướng thu hẹp phạm vi trừng trị. BLHS năm 1999 đã không coi là tội phạm một số hành vi mà BLHS năm 1985 trước đây coi là tội phạm. Chẳng hạn: Tội cản trở việc thực hiện các quy định của nhà nước về cải tạo xã hội chủ nghĩa (Điều 164 BLHS năm 1985);
2.3. Tình hình tội phạm kinh tế là hiện tượng thay đổi theo quá trình lịch sử
Như đã phân tích ở các thuộc tính trước, tình hình tội phạm kinh tế là sản phẩm của xã hội trong từng giai đoạn, trong từng thời kỳ lịch sử mà các yếu tố thuộc về xã hội lại luôn vận động, biến đổi không ngừng; chính vì vậy, tình hình tội phạm kinh tế là hiện tượng luôn thay đổi về mặt lịch sử. Sự thay đổi này có thể hiện ở sự thay đổi của các hành vi bị coi là tội phạm dẫn đến sự thay đổi số lượng, tính chất, khuynh hướng chống đối xã hội (nói chung là sự thay đổi về các thông số của tình hình tội phạm).
Nhìn chung, xét về bản chất, sự thay đổi theo lịch sử của tình hình tội phạm nói chung và tình hình tội phạm kinh tế nói riêng xuất phát từ tính xã hội, tính giai cấp bởi lẽ tình hình tội phạm luôn bị chi phối, thay đổi bởi các điều kiện xã hội, bởi ý chí của giai cấp thống trị mà các điều kiện xã hội, ý chí của giai cấp thống trị luôn thay đổi.
2.4. Tình hình tội phạm kinh tế là hiện tượng được hình thành từ một thể thống nhất các tội phạm cụ thể trong một không gian, thời gian nhất định
Tình hình tội phạm kinh tế không phải là sự kết hợp ngẫu nhiên cũng không phải là phép cộng đơn thuần các tội phạm có tính chất kinh tế cụ thể đã xảy ra trong xã hội mà giữa các tội phạm xảy ra trong xã hội có mối quan hệ hữu cơ tạo nên một chỉnh thể thống nhất đó là tình hình tội phạm. Tình hình tội phạm kinh tế có những đặc điểm đặc trưng về lượng, chất mới khác với các tội phạm cụ thể. Vì thế, sự thay đổi của một số đặc điểm dấu hiệu nào đó sẽ tất yếu kéo theo sự thay đổi các phương diện khác và cuối cùng dẫn đến thay đổi toàn bộ tình hình tội phạm kinh tế.
Chỉnh thể thống nhất các tội phạm đã xảy ra phải được giới hạn về không gian và thời gian. Bởi vì các tội phạm xảy ra trong cùng một khoảng thời gian nhưng ở các quốc gia khác nhau là khác nhau; hoặc trong một quốc gia thì ở các địa phương khác nhau, tội phạm xảy ra cũng khác nhau. Mặt khác, trong cùng một quốc hoặc từng vùng hành chính lãnh thổ (tỉnh, huyện), trong những khoảng thời gian khác nhau thì tội phạm xảy ra cũng khác nhau. Do vậy, để xác định được tổng hợp tội phạm kinh tế đòi hỏi phải xác định phạm vi không gian (quốc gia, tỉnh, thành phố) và giới hạn thời gian (năm, quý, tháng hoặc một giai đoạn, một thời kỳ). Như vậy, không thể nói tình hình tội phạm chung chung mà chỉ có thể nói tình hình tội phạm kinh tế trong một địa bàn nhất định và trong một khoảng thời gian nhất định.
3. CÁC THÔNG SỐ CỦA TÌNH HÌNH TỘI PHẠM KINH TẾ
3.1. Thông số về thực trạng của tình hình tội phạm kinh tế
“Thực trạng của tình hình tội phạm kinh tế là tổng số các tội phạm có tính chất kinh tế cụ thể đã xảy ra và số lượng người thực hiện các tội phạm đó trong một khoảng thời gian nhất định và ở một đìa bàn nhất định”.
“Thực trạng” được hiểu là tình trạng tồn tại trên thực tế cho nên tổng số tội phạm, người phạm tội ở đây xác định là số tội phạm, số người phạm tội đã xảy ra trên thực tế cho dù có bị phát hiện, xử lý hay chưa. Chính vì vậy thực trạng của tình hình tội phạm kinh tế bao gồm hai bộ phận: số người phạm tội, số tội phạm đã xảy ra và đã bị phát hiện, xử lý (tội phạm rõ) và số người phạm tội, tội phạm đã xảy ra nhưng chưa bị phát hiện, xử lý (tội phạm ẩn).
“Tội phạm rõ (tội phạm hiện) là tội phạm đã xảy ra trên thực tế, bị cơ quan chức năng phát hiện và xử lý theo thủ tục tố tụng hình sự”. Trên thực tế, số tội phạm rõ này được xác định qua thống kê của cơ quan chức năng. Tình hình tội phạm nói chung là hành vi, hiện tượng xã hội mang tính khách quan và con người có thể nhận thức đầy đủ, tuy nhiên vì nhiều lý do khác nhau mà có một bộ phận tội phạm kinh tế đã xảy ra trên thực tế, đã gây nguy hiểm cho xã hội nhưng chưa bị phát hiện và không tồn tại trong thống kê tội phạm, đó là tội phạm ẩn. Nói cách khác, “tội phạm ẩn là tội phạm đã xảy ra nhưng chưa bị cơ quan chức năng phát hiện, xử lý và không tồn tại trong thống kê tội phạm”. Với cách hiểu này, tội phạm ẩn có thể là những tội phạm chưa bị cơ quan chức năng phát hiện hoặc đã bị cơ quan chức năng phát hiện hoặc đã bị cơ quan chức năng phát hiện nhưng không bị cơ quan chức năng xử lý hoặc tội phạm đã bị cơ quan chức năng phát hiện, xử lý nhưng không được thống kê. Với cách hiểu này, tội phạm ẩn có thể được chia thành 3 loại:
Tội phạm ẩn tự nhiên: là tội phạm đã xảy ra nhưng cơ quan chức năng hoàn toàn không có thông tin về tội phạm cho nên tội phạm không bị xử lý và không đưa vào thống kê tội phạm (tội phạm ẩn khách quan). Nguyên nhân chủ yếu dẫn đến sự tồn tại của tội phạm ẩn tự nhiên là do các cơ quan chức năng không có thông tin về tội phạm.
Tội phạm ẩn nhân tạo: là tội phạm đã xảy ra trên thực tế, đã bị các cơ quan chức năng phát hiện nhưng không bị xử lý do có sự che đậy từ tội phạm ẩn tự nhiên khác (ẩn chủ quan). Sở dĩ loại tội phạm ẩn này được gọi là “ẩn nhân tạo” vì nguyên nhân chính dẫn dến sự tồn tại của nó là có sự tham gia của con người, mà cụ thể là những người có quyền hạn nhất định, tức là mặc dù tội phạm đã bị phát hiện nhưng những chủ thể có quyền hạn này cố tình không xử lý với nhiều lý do khác nhau.
Tội phạm ẩn thống kê: là tội phạm đã xảy ra trên thực tế, đã bị các cơ quan chức năng phát hiện, xử lý nhưng lại không đưa vào thống kê hình sự. Có quan điểm cho rằng đây không phải là một loại tội phạm ẩn vì số vụ phạm tội, số người phạm tội trong trường hợp này đã bị phát hiện và xử lý, việc không có trong số liệu thống kê là do sai sót trong quá trình thống kê. Tuy nhiên, đại đa số các nhà nghiên cứu tội phạm học Việt Nam hiện nay cho rằng đây cũng chính là một loại tội phạm ẩn vì trên thực tế, nếu số tội phạm, người phạm tội đã bị phát hiện, xử lý nhưng không được phản ánh trong số liệu thống kê thì số các tội phạm, người phạm tội này vẫn chưa được nhận biết, ảnh hưởng nghiêm trọng đến việc đánh giá tình hình tội phạm trên thực tế không được chính xác, từ đó dẫn đến hiệu quả hoạt đọng của hoạt động dự báo và phòng ngừa tội phạm.
Thực tế hiện nay, đa số tội phạm kinh tế thực hiện trong một thời gian dài mới bị phát hiện, ảnh hưởng đến lợi ích kinh tế của cả nền kinh tế quốc dân, thiệt hại đến lợi ích của nhân dân. Tuy nhiên, tỷ lệ ẩn của tội phạm kinh tế hiện nay là khá cao do nhiều nguyên nhân chủ quan cũng như khách quan như vừa phân tích; đồng thời, số liệu thống kê chỉ phản ánh một phần của tình hình tội phạm kinh tế.
3.2. Thông số về cơ cấu của tình hình tội phạm kinh tế
“Cơ cấu của tình hình tội phạm kinh tế là tỷ trọng, mối tương quan giữa các nhóm tội, loại tội (được phân chia theo nhiều căn cứ khác nhau) trong một chỉnh thể chung tổng hợp các tội phạm đã xảy ra trong một địa bàn và ở trong cùng một khoảng thời gian nhất định”.
Cơ cấu của tình hình tội phạm nói chung gồm các chỉ số cơ bản sau đây:
- Tỷ trọng và mối tương quan của các tội ít nghiêm trọng, nghiêm trọng, rất nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng. Việc phân chia tội phạm như trên căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm và mức cao nhất của khung hình phạt.
- Tỷ trọng và mối tương quan giữa từng loại tội được quy định trong cùng một chương của Bộ luật hình sự. Ví dụ: mối tương quan giữa các tội buôn lậu, tội đầu cơ, tội trốn thuế, tội cho vay nặng lãi… trong nhóm các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế.
- Tỷ trọng mối tương quan giữa các tội cố ý và các tội vô ý.
- Tỷ trọng và mối tương quan của những tội nguy hiểm và phổ biến nhất. Tội nguy hiểm và phổ biến được xác định trong từng thời gian và ở từng địa bàn nhất định. Hiện nay những tội phạm có tính chất kinh tế sau được coi là nguy hiểm và phổ biến: buôn lậu, sản xuất và buôn bán hàng giả, cố ý làm trái các quy định của nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng, tham ô, xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp… Bên cạnh đó, thủ đoạn phạm tội của tội phạm kinh tế hiện nay rất đa dạng và đang có xu hướng kỹ thuật hóa, số hóa bằng các thiết bị công nghệ cao ngày càng tinh vi, kín đáo. Chẳng hạn: Các loại virus, phần mềm gián điệp, mã độc ngày càng được mã hóa phức tạp với nhiều hình thức phát tán rất đa dạng như qua email, website khiêu dâm, diễn đàn, mạng xã hội, ứng dụng của các điện thoại thông minh. Đáng chú ý, hành vi tống tiền qua mạng Internet, mạng viễn thông bằng việc sử dụng các loại virus mã hóa dữ liệu thiết bị của người dùng cho đến khi người dùng trả phí theo đề nghị của các đối tượng mới được giải mã ngày càng xuất hiện phổ biến.
- Tỷ trọng tính theo “vị trí địa lý” của tội phạm tức là sự phân bố tội phạm theo lãnh thổ và điểm dân cư.
- Ngoài ra cơ cấu của tình hình tội phạm còn được nghiên cứu theo dấu hiệu về trình độ văn hóa, nghề nghiệp, tôn giáo… của người phạm tội.
Như vậy, thông qua các chỉ số về cơ cấu của tình hình tội phạm, chúng ta xác định được tính chất của tình hình tội phạm. Tính chất của tình hình tội phạm thể hiện rõ nét trong các chỉ số về các tội phạm nguy hiểm và phổ biến nhất; chỉ số về tái phạm; phạm tội có tổ chức và ở các đặc điểm nhân thân người phạm tội. Độ tuổi phổ biến của người phạm tội khoảng 30 - 45 tuổi. Đối tượng bị xử lý về tội phạm kinh tế thường là những người mang chức vụ, nắm giữ quyền hạn về kinh tế. Nhóm đối tượng này có trình độ chuyên môn, có kinh nghiệm quản lý, có quan hệ rộng rãi nên điều kiện và hoàn cảnh phạm tội khá thuận lợi, khả năng che giấu tội phạm cao. Ngược lại, vẫn có một số người mang chức vụ, quyền hạn nhưng lại không có kiến thức, kỹ năng quản lý kinh tế nên dễ dẫn đến phạm tội. Bên cạnh đó, những người phạm tội kinh tế không phải là cán bộ công chức thì thường có mối quan hệ thân thiết với người có trách nhiệm quản lý kinh tế và sử dụng mối quan hệ này như một điều kiện che chở hoặc tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động phạm tội.
Ở các vùng lãnh thổ, dân cư khác nhau thì cơ cấu tội phạm kinh tế cũng không giống nhau. Chẳng hạn giữa các tỉnh miền núi với miền đồng bằng; thành phố với nông thôn thì cơ cấu tình hình tội phạm cũng khác nhau. Sỡ dĩ như vậy là do cơ cấu của tình hình tội phạm phụ thuộc vào nhiều yếu tố như đặc điểm kinh tế - xã hội của các vùng, các địa phương; các truyền thống đạo đức, tập tục, thói quen, văn hóa, cơ cấu độ tuổi dân cư… Hiện nay, tội phạm kinh tế tập trung nhiều tại các trung tâm kinh tế lớn của cả nưóc như Hà Nội, Hải Phòng, thành phố Hồ Chí Minh, Đà Nẵng và đang có xu hướng chuyển dần từ các trung tâm kinh tế về các tỉnh, các huyện; từ thành thị về nông thôn. Tội buôn lậu vẫn tập trung ở các khu vực biên giới, chủ yếu là hàng tiêu dùng có xuất xứ từ Trung Quốc (riêng phân bón giả, kém chất lượng từ Trung Quốc vào Việt Nam đã lên tới 20.000 tấn/năm).
3.3. Thông số về diễn biến (động thái) của tình hình tội phạm kinh tế
“Động thái của tình hình tội phạm kinh tế là sự thay đổi về thực trạng và cơ cấu của tình hình tội phạm kinh tế tại một không gian, thời gian xác định. Sự thay đổi này được xác định bằng tỉ lệ tăng, giảm thực trạng, cơ cấu tình hình tội phạm so với điểm thời gian được lựa chọn làm mốc (xác định 100%)”.
Động thái về thực trạng là sự thay đổi về số tội phạm, số người phạm tội tại một địa bàn trong một khoảng thời gian xác định so với điểm thời gian làm mốc.
Ví dụ: về sự thay đổi của thực trạng tình hình tội phạm như sau: số vụ phạm tội buôn lậu từ năm 2002 đến năm 2008 tại tỉnh X theo thống kê của Tòa án nhân dân tỉnh X. Nếu như lấy mốc năm 2002 với 102 vụ phạm tội làm gốc thì tỉ lệ tội buôn lậu trong những năm tiếp theo là:
Năm |
Số vụ |
Tỉ lệ (%) |
2002 |
102 |
100 |
2003 |
143 |
140 |
2004 |
244 |
239 |
2005 |
272 |
267 |
2006 |
265 |
257 |
2007 |
232 |
227 |
2008 |
252 |
247 |
Động thái về cơ cấu là sự thay đổi về thành phần, tỉ trọng các tội, nhóm tội trong tổng tình hình tội phạm tại một địa bàn trong một khoảng thời gian xác định so với điểm thời gian làm mốc.
Nghiên cứu động thái của tình hình tội phạm có ý nghĩa quan trọng trong việc theo dõi sự thay đổi của tình hình tội phạm trong từng thời kỳ, xác định những nguyên nhân dẫn đến sự thay đổi về thực trạng, cơ cấu từ đó có biện pháp đấu tranh với tội phạm trong hiện tại và phòng ngừa tội phạm trong tương lai. Ngoài ra, sự thay đổi về thực trạng, cơ cấu tình hình tội phạm còn là cơ sở để đánh giá hiệu quả của hoạt động phòng ngừa tội phạm.
3.4. Thông số về thiệt hại do tình hình tội phạm kinh tế gây ra cho xã hội
Chỉ số phản ánh thiệt hại của tình hình tội phạm kinh tế gây ra cho xã hội về vật chất và thể chất là chỉ số bổ sung ngoài các chỉ số đã nêu. Chỉ số thiệt hại giúp cho chúng ta nhận thức đầy đủ về tình hình tội phạm. Chỉ số thiệt hại có thể gắn với thực trạng, cơ cấu và động thái của tình hình tội phạm. Khi xác định về chỉ số về thiệt hại của tình hình tội phạm kinh tế phải đánh giá tổng hợp trên nhiều số liệu thống kê khác nhau. Tuy nhiên, con số về thiệt hại vật chất trực tiếp do tội phạm gây ra hàng năm được xem là con số phản ánh cơ bản nhất đối với các tội có tính chất kinh tế hoặc vì mục đích kinh tế.
4. TÌNH HÌNH TỘI PHẠM KINH TẾ Ở VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY VÀ XU HƯỚNG PHÁT TRIỂN TRONG TƯƠNG LAI
4.1. Khái quát về tình hình tội phạm kinh tế trên cả nước
Sau 15 năm thực hiện Nghị quyết số 09/NQ-CP của Chính phủ và Chương trình quốc gia phòng, chống tội phạm (1998 - 2010) của Ban Chỉ đạo 138/CP, 5 năm thực hiện Chỉ thị số 48/CT-TW của Bộ Chính trị về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng, chống tội phạm trong tình hình mới (2010 - 2014), công tác phòng, chống tội phạm ở nước ta đã thu được nhiều kết quả quan trọng, góp phần tích cực giữ gìn trật tự, kỷ cương pháp luật, phục vụ công cuộc phát triển đất nước. Tuy nhiên, tình hình tội phạm ở nước ta vẫn còn diễn biến phức tạp. Những năm gần đây, mỗi năm phát hiện trung bình trên 70 ngàn vụ phạm tội các loại, trong đó trên 10 ngàn vụ phạm tội về kinh tế. So với các nước trên thế giới và trong khu vực thì tình hình tội phạm ở Việt Nam chỉ ở mức trung bình thấp, nhưng tính chất phức tạp. Đáng lưu ý, tỷ lệ tội phạm ẩn ở nước ta cao, đặc biệt là trong lĩnh vực tội phạm về kinh tế.
Tội phạm tập trung chủ yếu ở các thành phố, thị xã, thị trấn (chiếm 70%). Các tuyến, địa bàn tội phạm xảy ra nhiều: năm thành phố lớn là Hà Nội, Hải Phòng, thành phố Hồ Chí Minh, Đà Nẵng, Cần Thơ (chiếm 25% - 30% tổng số vụ phạm tội trên toàn quốc hàng năm); các tuyến Hà Nội và các tỉnh Đông Bắc (Hải Dương, Hải Phòng, Quảng Ninh, Bắc Giang…), thành phố Hồ Chí Minh – các tỉnh miền Đông Nam Bộ (Đồng Nai, Bình Dương, Bà Rịa - Vũng Tàu…), các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long (An Giang, Kiên Giang, Bến Tre, Đồng Tháp, Tiền Giang…), các tỉnh miền Trung - Nam Trung Bộ và Tây Nguyên (Gia Lai, Đắk Lắk, Khánh Hoà, Bình Định…).[2]
Tình hình tội phạm kinh tế qua các năm có mức độ tăng giảm khác nhau, và nổi lên với nhiều loại tội phạm. Theo thống kê của Bộ Công an, tình hình tội phạm kinh tế như sau:
Năm |
Số vụ việc bị phát hiện |
Số đối tượng bắt xử lý |
2011 |
15.089 |
12.767 |
2012 |
15690 |
14013 |
2013 |
11351 |
X |
2014 |
12834 |
X |
Qua thống kê của Bộ Công an có thể thấy về số vụ việc của tội phạm kinh tế qua các năm có sự tăng giảm không đáng kể, so với năm 2012, mặc dù tình hình tội phạm trong năm 2014 có giảm về số vụ bị phát hiện nhưng điều đó không có nghĩa là tình hình tội phạm không đáng lo ngại. Thực tế, qua nhiều biện pháp đấu tranh phòng ngừa tội phạm thì tình hình tội phạm đã giảm đáng kể, nhưng về thủ đoạn hành vi của tội phạm lại nguy hiểm hơn, khó phát hiện hơn do tình hình phát triển của xã hội kéo theo đó, việc che dấu hành vi phạm tội cũng được thực hiện tinh vi hơn.
4.2. Tình hình tội phạm kinh tế trong một số lĩnh vực
Mặc dù Đảng và Nhà nước có nhiều chủ trương chính sách và tập trung chỉ đạo quyết liệt chống tội phạm kinh tế nhưng tình trạng tiêu cực, tham nhũng còn xảy ra phổ biến, nhất là trong các ngành và lĩnh vực kinh tế trọng điểm gây thất thoát lớn tài sản của Nhà nước và nhức nhối cho xã hội. Nổi lên một số nét cụ thể:
® Tình hình tội phạm trong lĩnh vực tài chính - ngân hàng:
Theo thông tin không chính thức từ Viện Kiểm sát nhân dân Tối cao, từ năm 2006 đến quý 1 năm 2015, Cơ quan điều tra đã phát hiện và khởi tố 37 vụ án, Viện kiểm sát phê chuẩn khởi tố 115 bị can về hành vi phạm tội có liên quan đến lĩnh vực ngân hàng, tín dụng như: lừa đảo chiếm đoạt tài sản, vi phạm về cho vay trong hoạt động của các tổ chức tín dụng, cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng, tham ô tài sản,... trong đó tội phạm xảy ra tại các Ngân hàng Nhà nước là 10 vụ, chiếm tỷ lệ 27% (riêng tại hệ thống Ngân hàng NN và PTNT Việt Nam xảy ra 09 vụ, chiếm tỷ lệ 25%), Ngân hàng thương mại cổ phần xảy ra 17 vụ chiếm 46%, còn lại thuộc các loại hình ngân hàng khác. Tổng số tiền bị chiếm doạt của các ngân hàng là 1.108 tỷ đồng, trên 320 lượng vàng, và gần 2 triệu USD.
Một số thủ đoạn được thực hiện trong lĩnh vực này như: Tình trạng cán bộ ngân hàng lợi dụng chức vụ, quyền hạn, lạm dụng tín nhiệm, lừa đảo chiếm đoạt tại sản; thông đồng, móc ngoặc với các đối tượng ngoài xã hội để cho vay, bảo lãnh vượt thẩm quyền, nâng khống giá trị tài sản; lập dự án ma, dùng cổ phiếu giả, giấy tờ giả để thế chấp vay tiền. Ngoài ra còn một số thủ đoạn khác như:
+ Lập chứng từ khống, ký giả chữ ký người khác để rút tiền của Ngân hàng như vụ Hoàng Văn Luận ở Ngân hàng NN và PTNT Chi nhánh Sài Đồng, Gia Lâm; vụ Lê Hoài Phương ở Ngân hàng đầu tư và phát triển quận Cầu Giấy…
+ Bán cổ phiếu khống của Ngân hàng, không nhập quỹ hoặc nhập quỹ không đầy đủ, lợi dụng lòng tin của nhiều người để chiếm đoạt tài sản như vụ Lê Quang Hưng, cán bộ Ban trù bị thành lập Ngân hàng TMCP Hồng Việt; Vụ Nguyễn Thanh Hà kế toán Ngân quỹ của Ngân hàng Nông Nghiêp và PTNT Việt Nam- chi nhánh Tam Trinh, quận Hoàng Mai,…..);
+ Lợi dụng quyền hạn được giao để chiếm đoạt tài sản như Vụ án Huỳnh Thị Huyền Như chiếm đoạt hơn 4.911 tỷ Việt Nam đồng xảy ra tại VietinBank là vụ án lớn nhất trong lịch sử ngành Ngân hàng Việt Nam. Đây là một trong những vụ án kinh tế lớn nhất tại Việt Nam trong lịch sử hiện đại, với 23 bị cáo, và 47 luật sư bảo vệ cho bị cáo cũng như nguyên cáo. Nếu xét về số tiền thiệt hại, tuy không bằng Vụ án EPCO - Minh Phụng, nhưng mức độ thiệt hại thực tế thì lại là lớn nhất trừ trước đến nay (nguy cơ mất trắng 3.300 tỷ). Thời gian phạm tội kéo dài từ năm 2007 đến thời điểm khởi tố (tháng 9.2011). Tổng số tiền các đối tượng đã huy động trong vụ án này lên đến hàng chục ngàn tỷ đồng.
® Tình hình tội phạm trong lĩnh vực lưu thông hàng hóa
Các vụ buôn lậu xảy ra nhiều ở khu vực biên giới, tiếp giáp với Trung Quốc, Lào, Campuchia qua các đường buôn bán tiểu mạch, tại các cửa khẩu, đường biển, đường hàng không vào Việt Nam xảy ra rất nghiêm trọng mà chưa có giải pháp hữu hiệu để giải quyết tình trạng này. Tội phạm buôn lậu thường kéo theo cùng với một số loại tội phạm khác như kinh doanh trái phép, làm hàng giả, trốn thuế và đi cùng với tội đưa và nhận hối lộ làm tha hoá một số lớn đội ngũ cán bộ công chức nhà nước trong các ngành thuế vụ, hải quan, công an... Điển hình như vụ án Tân Trường Sanh, truy tố 86 bị can, trong đó hơn một nửa là cán bộ hải quan; vụ buôn lậu xăng, dầu ở Tiền Giang cũng tương tự.
Đáng chú ý, hoạt động buôn lậu xăng dầu với số lượng lớn từ nước ngoài vào vùng biển Việt Nam để tiêu thụ và buôn lậu than từ Việt Nam sang Trung Quốc gây thất thu thuế, ảnh hưởng nghiêm trọng đến nền kinh tế. Qua đấu tranh cho thấy, các đối tượng buôn lậu hoạt động rất tinh vi, móc nối với các đối tượng nước ngoài sử dụng chứng từ, hóa đơn, hợp đồng vận chuyển giả để đối phó với lực lượng chức năng khi bị phát hiện.
Tình hình sản xuất, buôn bán hàng giả; vận chuyển, tàng trữ, tiêu thụ tiền giả diễn ra phức tạp ở hầu hết các vùng, miền trong cả nước. Hình thành những tổ chức, đường dây sản xuất, vận chuyển ở thôn Thống Nhất xã Thủ Sỹ tiêu thụ tiền giả mang tính chuyên nghiệp ở từng cung đoạn khác nhau. Bên cạnh tiền Đồng Việt Nam giả, các loại ngoại tệ, séc, thẻ tín dụng giả xuất hiện và có chiều hướng gia tăng. Tội phạm lừa đảo trong lĩnh vực đưa người đi xuất khẩu lao động, tội phạm tẩy rửa tiền, tội phạm sử dụng công nghệ cao, ... đã xuất hiện trong những năm gần đây.
® Tình hình tội phạm tham nhũng
Tình trạng tiêu cực xảy ra ở nhiều cấp, nhiều ngành, nhất là trong lĩnh vực ngân hàng, tài chính, đầu tư, xây dựng cơ bản, vi phạm quản lý đất đai..., gây ra hậu quả đặc biệt nghiêm trọng. Có một số vụ án lớn, gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng như: vụ Tân Trường Sanh, EPCO - Minh Phụng; vụ Dệt Nam Định, vụ thuỷ cung Thăng Long, vụ Mường Tè - Lai Châu, PMU 18... gây thiệt hại hàng ngàn tỷ đồng. Nguy hiểm hơn là chúng đã làm tha hoá một bộ phận cán bộ công chức trong các cơ quan, doanh nghiệp, lực lượng vũ trang... làm ảnh hưởng nghiêm trọng tới lòng tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước. Trong những năm qua, mặc dù Đảng và Nhà nước ta đã đưa ra nhiều giải pháp đấu tranh chống tham nhũng, tiêu cực, nhưng hiệu quả chưa cao, chưa đáp ứng được yêu cầu đặt ra, số vụ tham nhũng, tiêu cực được phát hiện, đưa ra ánh sáng còn ít.
® Tình hình tội phạm trong lĩnh vực xây dựng cơ bản
Hàng năm Nhà nước dành ngân sách ưu tiên cho lĩnh vực này nhằm tạo cơ sở vững chắc cho việc đầu tư phát triển kinh tế, ổn định trật tự xã hội. Tuy nhiên, điều đáng quan tâm là tội phạm trong lĩnh vực này cũng gia tăng, nổi lên là tình hình tham nhũng hết sức nghiêm trọng, thể hiện trong nhiều khâu của hoạt động kinh tế trong lĩnh vực này như khâu khảo sát, thiết kế, xin phép đầu tư xây dựng, giải phóng mặt bằng, đấu thầu, thi công, thanh quyết toán… Điều đáng quan tâm là tỷ lệ tội phạm “ẩn” trong lĩnh vực này còn cao.
Một số thủ đoạn được thực hiện trong lĩnh vực này như: Các doanh nghiệp trong lĩnh vực xây dựng, đầu tư tìm cách móc nối, câu kết với một số cán bộ Nhà nước có thẩm quyền trong lĩnh vực cấp phép đầu tư dự án; dùng nhà, đất, tiền, tài sản để “bôi trơn” nhằm xin được cấp phép, cấp đất dự án. Loại hành vi này xảy ra khá phổ biến trong nhiều dự án có tính chất “xin - cho” ở nước ta hiện nay, đã tạo thành tâm lý phải có tiền thì mới giải quyết được việc. Ngoài ra, một số cán bộ Nhà nước có thẩm quyền đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn được giao, có hành vi trái phép, làm trái nguyên tắc trong việc cấp, sử dụng, thu hồi đất làm thiệt hại tài sản của Nhà nước và nhân dân. Thực tế cho thấy, nhiều dự án được duyệt, nhưng không thực hiện theo mục đích ban đầu, mà chỉ để mua đi, bán lại để kiếm lời.[3]
Trong lĩnh vực đầu tư xây dựng cơ bản, cũng có nhiều loại hành vi tham nhũng của cán bộ cơ quan Nhà nước như nhận hối lộ, tham ô.[4]
® Tình hình tội phạm công nghệ cao
Tuy mới xuất hiện ở Việt Nam, tội phạm sử dụng công nghệ cao đã diễn biễn biến rất phức tạp với quy mô, tính chất, mức độ, thiệt hại đều gia tăng nhanh chóng qua từng năm. Theo Cục cảnh sát phòng chống tội phạm công nghệ cao C50, phương thức, thủ đoạn phạm tội của loại tội phạm ngày càng tinh vi, kín đáo và có sự thay đổi liên tục nhằm lẩn tránh sự phát hiện của các cơ quan chức năng. Thiệt hại do tội phạm sử dụng công nghệ cao gây ra vô cùng lớn, ảnh hưởng nghiêm trọng đến trật tự an toàn xã hội.
Tình trạng tội phạm sử dụng công nghệ thông tin, truyền thông để chiếm đoạt tài sản diễn biến rất phức tạp, khó lường như: trộm cắp, sử dụng trái phép thông tin thẻ tín dụng; làm giả thẻ ATM; trộm cước viễn thông... Đáng chú ý, nhiều loại tội phạm truyền thống đang có xu hướng chuyển sang sử dụng công nghệ cao để hoạt động phạm tội như: trộm cắp; lừa đảo; tống tiền; đánh bạc, cá độ bóng đá; mại dâm; buôn bán hàng cấm; phát tán văn hóa phẩm đồi trụy; rửa tiền…
Cụ thể, tình trạng trộm cắp, trao đổi, mua bán, sử dụng trái phép, làm giả thẻ tín dụng để mua hàng ở nước ngoài chuyển về Việt Nam tiêu thụ diễn ra phức tạp. Đã hình thành những đường dây gồm nhiều đối tượng cả trong lẫn ngoài nước, xâm nhập bất hợp pháp vào các Website bán hàng, thanh toán trực tuyến để trộm cắp thông tin thẻ tín dụng, sau đó đặt mua hàng hóa trực tuyến có giá trị cao (iPhone, iPad, laptop, máy ảnh...) chuyển về Việt Nam tiêu thụ, gây thiệt hại nghiêm trọng cho các chủ thẻ. Nhiều đối tượng người nước ngoài (chủ yếu quốc tịch Trung Quốc, Đài Loan, Malaysia và một số quốc gia châu Phi) nhập cảnh vào Việt Nam sử dụng thiết bị công nghệ cao để làm giả thẻ sau đó móc nối với một số đơn vị chấp nhận thanh toán thẻ (POS) tiến hành giao dịch khống để rút tiền mặt, chiếm hưởng trái phép hàng trăm tỷ đồng. Bên cạnh đó, phát hiện tội phạm sử dụng phần mềm để giám sát, nghe lén điện thoại trái phép…[5].
® Tình hình tội phạm trong lĩnh vực đầu tư nước ngoài
Với chiến lược mở cửa để đưa nền kinh tế nước ta hội nhập với nền kinh tế
khu vực và thế giới đã được Đảng và Nhà nước ta chủ chương thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài nhằm mục đích giải quyết nạn khan hiếm về vốn cho đầu tư phát triển xã hội
tạo thêm nhiều công ăn việc làm cho người lao động, cung cấp cho nền kinh tế nước nhà. Những máy móc, quy trình công nghệ tiên tiến, sản xuất nhiều mặt hàng có chất lượng và hàm lượng kỹ thuật cao, góp phần thúc đẩy phát triển nên kinh tế đất nước tạo nên sức mạnh tổng hợp phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Tuy nhiên, một số đối tượng lợi dụng việc thu hút đầu tư này để thu lợi bất chính. Một số tội phạm điển hình trong lĩnh vực này là tội rửa tiền, kinh doanh trái phép, vi phạm sở hữu trí tuệ, bán sản phẩm kém chất lượng, gian lận thương mại, nợ thuế, trốn thuế, vi phạm quy định về bán hàng hóa thuộc đối tượng ưu đãi thuế quan không đúng quy định, vi phạm quy chế quản lý hải quan đối với nguyên liệu nhập khẩu để sản xuất hàng xuất khẩu. Lập chứng từ giả để tham ô, lừa đảo chiếm đoạt tài sản.
® Tình hình tội phạm trong lĩnh vực kinh tế ngoài quốc doanh
Những đối tượng đang lợi dụng hình thức mở công ty TNHH, công ty cổ phần và doanh nghiệp tư nhân để kinh doanh thu lợi bất hợp pháp từ hình thức hoạt động này. Trong lĩnh vực này có một số tội điển hình như tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, buôn lậu, trốn thuế gây thất thoát lớn về tài sản của Nhà nước, kinh doanh trái phép, buôn bán hóa đơn bất hợp pháp, sản xuất hàng giả, tàng trữ, vận chuyển và buôn bán trái phép hàng hóa nhập lậu, buôn bán hàng cấm,…
Thủ đoạn thường gặp như giả mạo về xuất xứ hàng hóa trong và ngoài ASEAN; khai giá thấp so với giá thực tế, khai sai tên hàng, sai kích thước của mặt hàng thực nhập, gian lận trong hàng khuyến mại, lợi dụng việc được trừ các khoản được trừ, chia nhỏ linh kiện, phụ tùng của sản phẩm nguyên chiếc để gian lận giá;…..
4.3. Một số dự báo tình hình tội phạm kinh tế trong tương lai
Tính chất tội phạm ngày càng nguy hiểm, mang yếu tố quốc tế, có tổ chức, xuyên quốc gia và sử dụng công nghệ cao. Thủ đoạn hoạt động tinh vi, phương thức hoạt động xảo quyệt, manh động, liều lĩnh. Tội phạm kinh tế trong lĩnh vực tài chính - ngân hàng, đầu tư, quản lý, sử dụng đất đai và thương mại, tội phạm và vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường vẫn hết sức nhức nhối. Xu hướng tội phạm cấu kết với nhau hình thành các tập đoàn tội phạm lớn hoạt động đa lĩnh vực, liên tỉnh, xuyên quốc gia, nếu không được đấu tranh ngăn chặn, có thể trở thành hiện thực. Tội phạm do suy thoái đạo đức xã hội, đạo đức gia đình có xu hướng gia tăng, trực tiếp đe dọa phá vỡ nền tảng đạo đức, văn hóa…
Địa bàn hoạt động của tội phạm chủ yếu tập trung ở các thành phố lớn, các tuyến trọng điểm, các lĩnh vực quan trọng của đời sống xã hội, nhất là ở Thủ đô Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, các đô thị loại 1 và các vùng chiến lược về an ninh, trật tự; trên các tuyến biên giới, quốc lộ trọng điểm, tuyến hàng không quốc tế, tuyến bưu chính - viễn thông; trong lĩnh vực tài chính - ngân hàng, quản lý, sử dụng đất đai, xuất - nhập khẩu, thương mại điện tử, tổ chức cán bộ và an sinh xã hội...
Vi phạm và tội phạm tham nhũng vẫn phức tạp. Tình trạng tiêu cực, lãng phí, nhũng nhiễu của cán bộ trong cơ quan quản lý Nhà nước; thủ tục hành chính còn nhiều phiền hà, là nguyên nhân gây bức xúc trong đời sống xã hội.
Lĩnh vực tài chính tiếp tục tiềm ẩn và bộc lộ nhiều vi phạm và tội phạm, tội phạm lừa đảo, làm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản sẽ xảy ra nhiều do nguồn vốn khan hiếm, tập trung ở các lĩnh vực: lừa đảo trong việc thực hiện dự án, mua bán nhà đất; lạm dụng tín nhiệm, lừa đảo trong các quan hệ tín dụng, trong ký kết hợp đồng kinh tế; trong vay vốn thế chấp sổ đỏ; dịch vụ việc làm, du học… nhất là vi phạm và tội phạm trong hoạt động tín dụng đen với lãi suất cao tiếp tục diễn biến phức tạp, nguy cơ nhiều vụ vỡ nợ lớn sẽ xảy ra, gây thiệt hại lớn về kinh tế cho xã hội và người dân.
Hoạt động buôn lậu, hàng cấm (như gia cầm, thuốc lá, rượu bia, đồ gia dụng…), tàng trữ, lưu hành tiền giả, gian lận thương mại tiếp tục phức tạp. Các đối tượng sẽ triệt để lợi dụng những sơ hở, bất cập trong chính sách kinh tế, những yếu kém trong công tác quản lý kinh tế để hoạt động phạm tội. Tính chất mức độ của loại tội phạm này sẽ phức tạp hơn nhất là các mặt hàng có xuất xứ từ Trung Quốc trong đó có mặt hàng pháo các loại (hàng cấm) các đối tượng sẽ hoạt động mạnh trên tuyến đường bộ, đường sắt, đường thủy…
Tội phạm, vi phạm trong quản lý, sử dụng đất đai tiếp tục diễn biến phức tạp, hậu quả gây ra nghiêm trọng; việc giải quyết từ cơ sở không dứt điểm còn những tồn tại, hạn chế là nguyên nhân dẫn đến khiếu kiện của người dân.
Tội phạm trốn thuế vẫn tiếp tục có chiều hướng gia tăng, diễn ra phổ biến ở hầu hết các lĩnh vực trong kinh doanh sẽ không giảm, tình trạng thành lập doanh nghiệp “ma”, buôn bán hóa đơn vẫn xảy ra và phức tạp do tình hình kinh tế khó khăn.
Hoạt động sản xuất, buôn bán hàng giả, hàng kém chất lượng, vi phạm sở hữu trí tuệ, vi phạm vệ sinh an toàn thực phẩm tiếp tục phức tạp, gây ảnh hưởng trực tiếp tới đời sống nhân dân. Nhất là các mặt hàng lương thực thực phẩm (đặc biệt là gà, sản phẩm gia cầm nhập lậu, không qua kiểm dịch, không rõ nguồn gốc; thực phẩm, sữa bẩn, hoa quả sử dụng hóa chất), thuốc chữa bệnh, hàng tiêu dùng…
Tội phạm sử dụng công nghệ cao sẽ gia tăng và diễn ra phức tạp với nhiều thủ đoạn tinh vi hơn, gây thiệt hại lớn đến tài sản Nhà nước, cơ quan, doanh nghiệp và công dân.
[1] Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Tội phạm học, Nxb Công an nhân dân.
[2] Tình hình tội phạm ở Việt Nam, trích từ Sổ tay phòng chống tội phạm, http://www.hoilhpn.org.vn/NewsDetail.asp?Catid=204&NewsId=9625&lang=VN
[3] Điển hình là các vụ án: vụ án xin cấp đất Dự án của Công ty Phát triển nhà tỉnh Bạc Liêu; vụ Phan Văn Khỏe, nguyên Chủ tịch UBND huyện Hóc Môn, TP Hồ Chí Minh nhận hối lộ; vụ sai phạm tại xã Hải Bối, huyện Đông Anh, Hà Nội; vụ Tổng Công ty Mía đường II…
[5] Điển hình:
- Các đối tượng là gọi điện qua Internet vào các thuê bao của các bị hại ở trong nước để thông báo tới bị hại với nội dung đang nợ cước điện thoại, hoặc số tài khoản ngân hàng của bị hại bị kẻ xấu chiếm đoạt để dùng vào mục đích xấu. Đồng thời với thông báo trên, các đối tượng sẽ yêu cầu bị hại chuyển toàn bộ tiền vào một tài khoản khác sau đó sẽ chiếm đoạt.Thủ đoạn của các đối tượng rất tinh vi khi dùng Internet thông qua phương thức VOIP - thông tin được truyền tải là mã hóa của âm thanh để gọi điện nhằm tránh sự truy xét của cơ quan công an. Đồng thời sau khi tiền của nạn nhân chuyển vào tài khoản thì các đối tượng sẽ lập tức rút toàn bộ tiền.
- Mới đây, Công an TP Hà Nội xác minh một số vụ lừa đảo chiếm đoạt tài sản qua mạng xã hội với thủ đoạn mới: Đối tượng gây án là người nước ngoài thường sử dụng Facebook để làm quen các phụ nữ đơn thân. Sau nhiều tháng trò chuyện, đối tượng đề nghị tặng cho bị hại những đồ vật có giá trị như tiền, dây chuyền, ĐTDĐ qua chuyển phát nhanh từ nước ngoài về Việt Nam. Sau đó, chúng cấu kết với đối tượng người Việt Nam giả danh nhân viên hải quan, cơ quan thuế, sân bay hoặc công ty chuyển phát nhanh gọi điện cho bị hại thông báo lô hàng chuyển từ nước ngoài về đang bị tạm giữ. Nếu muốn nhận lại, bị hại phải nộp các khoản tiền chuyển phát nhanh, tiền thuế các tài khoản do chúng cung cấp.
- Một số tổ chức tội phạm ở nước ngoài đã đột nhập vào cơ sở dữ liệu ngân hàng Anh, Pháp, Đức, Mỹ... lấy được các thông tin cá nhân, tài khoản, cử người (chủ yếu là Châu Phi) vào Việt Nam bằng con đường du lịch dùng hộ chiếu, giấy tờ giả mở tài khoản tại các ngân hàng, sau đó tạo các lệnh chuyển tiền hàng chục ngàn euro, USD về tài khoản tại các ngân hàng thương mại Việt Nam để rút tiền ngay trong ngày hoặc ngay sau khi mở tài khoản.
D. NGUYÊN NHÂN - ĐIỀU KIỆN
Khi nghiên cứu về tội phạm, người ta thường tìm hiểu tại sao con người lại phạm tội, điều gì đã thúc đẩy khiến con người ta phạm tội hay nói cách khác nguyên nhân của tội phạm là gì. Và nguyên nhân của tội phạm bao giờ cũng có liên quan đến các yếu tố kinh tế, xã hội, văn hóa, tư tưởng nhất định.
Tội phạm kinh tế chỉ chiếm khoảng 12% đến 15% trong tổng số tội phạm nhưng thiệt hại về tài sản chủ yếu là do tội phạm kinh tế gây ra, ví dụ vụ Epco – Minh Phụng, thiệt hại về tài sản lên đến 3.700 tỉ đồng, vụ Huỳnh Thị Huyền Như, thiệt hại khoảng 4.000 tỉ đồng. Việc nghiên cứu nguyên nhân và điều kiện của tội phạm nói chung, tội phạm kinh tế nói riêng có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc đề ra các biện pháp hữu hiệu trong việc đấu tranh, ngăn ngừa tội phạm.
Các nguyên nhân và điều kiện dẫn đến tội phạm kinh tế, chủ yếu gồm các nguyên nhân sau:
I. Nguyên nhân và điều kiện:
1. Các nguyên nhân và điều kiện về kinh tế - xã hội:
Những khó khăn về KT (khủng hoảng KT toàn cầu năm 1997) cũng như tác động tiêu cực của KTTT. Theo thống kê, từ năm 2011 đến nay có khoảng hơn 50.000 doanh nghiệp thua lỗ và phá sản (nguyên nhân là tiếp cận nguồn vốn ít, kinh doanh không hiệu quả, sức ép của cạnh tranh quá lớn) dẫn đến nhiều doanh nghiệp trốn thuế, kinh doanh trái phép…
Bên cạnh đó, số người thất nghiệp tăng, một số giá trị đạo đức bị xói mòn. Từ đó xuất hiện lối sống thực dụng, lừa đảo, sản xuất hàng giả, buôn lậu, làm giàu bằng mọi cách.
2. Các nguyên nhân và điều kiện về cơ chế quản lý:
Do cơ chế quản lý lỏng lẻo dẫn đến phát sinh các vấn đề tiêu cực, lợi dụng kẽ hở để phạm tội. Nhất là trách nhiệm của người đứng đầu, nếu họ quản lý không hiệu quả xảy ra các tội phạm về tham nhũng. Hoặc việc cấp giấy chứng nhận kinh doanh đối với cơ sở không đủ điều kiện, thiếu kiểm tra dẫn đến việc thiệt hại của rất lớn của nhân dân trồng ngô (bắp) ở tỉnh Hà Tĩnh khi gieo trồng ngô một thời gian dài, ngô trổ cờ rồi lụi dần chứ không cho trái.
Do tư duy quản lý quan liêu, tùy tiện. Nhiều trường hợp duyệt vay, thẩm định cho vay không đúng quy định, do đó hàng năm cơ quan điều tra đã khởi tố không ít cán bộ của ngân hàng trong hoạt động cho vay của các tổ chức tín dụng.
Nguyên nhân thứ 3 là do chậm thích ứng, thay đổi cơ chế tài chính – tiền tệ trong nền kinh tế thị trường. Đã đến lúc chúng ta cần xem xét và không nên quá dựa dẫm ngân hàng, lâu nay ngân hàng nắm giữ khoảng 80% nguồn vốn của các doanh nghiệp, bản thân các doanh nghiệp không mạnh dạn chủ động nguồn vốn, đến khi doanh nghiệp đứng trước bờ vực phá sản thì lập các hồ sơ, chứng từ giả để chiếm đoạt tài sản của các ngân hàng. Kéo theo các vi phạm về cho vay trong hoạt động cho vay của các tổ chức tín dụng.
3. Các nguyên nhân và điều kiện về tâm lý và xã hội:
Điều kiện sống, điều kiện giáo dục không thuận lợi cho việc hình thành nhân cách là nguyên nhân cơ bản làm nảy sinh những quan điểm sai lệch về đạo đức, PL về sự định hướng giá trị dẫn đến việc phạm tội;
Đối tượng khác nhau, tâm lý phạm tội khác nhau, dưới sự ảnh hưởng của nền KTTT.
Ý thức chấp hành PL chưa cao.
Ví dụ, cũng trong môi trường sống, có người chỉ nảy sinh ý định lén lút lấy trộm tài sản của người khác nhưng có người lại có suy nghĩ táo bạo hơn là cướp tài sản hoặc lừa đảo chiếm đoạt tài sản.
4. Các nguyên nhân và điều kiện về công tác tổ chức cán bộ:
Một số cán bộ chưa qua lớp đào tạo cơ bản về quản lý NN;
Hạn chế về năng lực và trình độ quản lý, thiếu kiến thức về quản lý KT;
Chưa được chuẩn bị, rèn luyện về phẩm chất đạo đức cần thiết của người lãnh đạo, doanh nhân quản lý.
Việc xử lý vi phạm chưa nghiêm, nhiều vụ việc xử lý mang tính chất nội bộ, kéo dài, chưa được giải quyết triệt để;
5. Hạn chế của CQ bảo vệ PL trong việc phát hiện và xử lý đối với TPKT:
Việc tổ chức phối hợp hoạt động của CQBVPL để phát hiện và xử lý TP còn chưa đồng bộ, chưa phát huy được sức mạnh tổng hợp. Các cơ quan bảo vệ pháp luật còn gặp rất nhiều khó khăn, vướng mắc trong việc xây dựng và áp dụng các biện pháp để đấu tranh phòng chống tội phạm. Cơ sở vật chất phục vụ cho công tác đấu tranh phòng chống tội phạm do kinh phí còn hạn chế nên chưa được trang bị đầy đủ, chưa đáp ứng với yêu cầu thực tế. Sự phối kết hợp các biện pháp chung của toàn xã hội với các biện pháp chuyên môn của các cơ quan bảo vệ pháp luật còn chưa toàn diện và triệt để.
Đội ngũ các cơ quan bảo vệ pháp luật vẫn còn thiếu, còn hạn chế trong việc đưa ra các dự báo về tình hình tội phạm. Nhiều cán bộ chưa được tập huấn về các lĩnh vực công nghệ cao, xây dựng cơ bản, tội phạm có tổ chức, tội phạm xuyên quốc gia…
Chưa có sự phối hợp thường xuyên giữa cơ quan quản lý NN, cơ quan bảo vệ PL và các đơn vị kinh tế;
Tình trạng xử lý TP còn thiếu nghiêm minh, chưa công bằng, chưa thống nhất theo quy định của PL.
II. Ý nghĩa của việc tìm hiểu nguyên nhân & điều kiện của tình hình TP:
Góp phần xây dựng các giải pháp phòng ngừa TP xác thực tế nhằm hạn chế tội phạm;
Hiểu rõ hơn bản chất XH của tình hình TP nói chung và TP cụ thể (TPKT) nói riêng;
Hoàn thiện hệ thống PL nói chung và PL Hình sự nói riêng;
Đưa ra đường lối, chủ trương phù hợp, thúc đẩy phát triển kinh tế.